Trẻ sơ sinh là đối tượng có sức đề kháng yếu nên rất dễ mắc bệnh, đặc biệt là khi thời tiết thay đổi. Các bệnh thường gặp ở trẻ sơ sinh phần lớn không nguy hiểm đến tính mạng, thế nhưng không biết cách xử lý kịp thời có thể khiến trẻ phải chịu nhiều biến chứng đáng tiếc. Tìm hiểu thông tin về các bệnh lý thường gặp ở trẻ sơ sinh sẽ giúp cha mẹ nhận biết và chủ động tìm được hướng khắc phục, bảo vệ tốt nhất cho sức khỏe của mình.
20 loại bệnh thường gặp ở trẻ sơ sinh
Đối với trẻ nhỏ, những bệnh lý thường gặp phải điển hình như sau:
Vàng da
– Triệu chứng:
Vàng da sinh lý: Da mặt, ngực, tay chân trẻ bị vàng 2 – 3 ngày sau sinh, tiêu phân vàng, bé vẫn bú mẹ và ăn ngủ tốt.
Vàng da bệnh lý: Vùng bị vàng da tăng nhanh, trẻ đi phân bạc màu, có thể kèm theo lá lách to.
– Nguyên nhân:
Vàng da sinh lý: Cơ thể bé có quá nhiều bilirubin hơn mức mà cơ thể có thể đào thải. Tình trạng này gặp ở hầu hết các trẻ, vì vậy vàng da sinh lý được xếp vào một trong những bệnh về da thường gặp nhất ở trẻ sơ sinh.
Vàng da bệnh lý: Có nhiều nguyên nhân khác nhau như trẻ bị tán huyết, bệnh gan, tắc mật, bệnh nhiễm trùng.
– Cách xử lý: Sau 3 ngày mà vàng da không chấm dứt phải đưa trẻ đến bệnh viện.
Mụn sữa hay mụn trứng cá, nang kê
– Triệu chứng: bệnh có thể xuất hiện vài tuần sau sinh, hiếm khi thấy ngay khi trẻ vừa chào đời. Mụn nhỏ mọc nhiều ở trên má, trán, cằm và lưng, có thể được bao bọc bởi 1 vùng da tấy đỏ. Mụn tăng nhiều khi cơ thể bé nóng lên hoặc tiếp xúc với nước bọt, chất tẩy rửa.
– Nguyên nhân: Do da quá mỏng và yếu, ảnh hưởng từ các hormone nhận được tử người mẹ hoặc trẻ bị phì đại tuyến bã.
– Cách xử lý: Tắm cho trẻ hàng ngày bằng nước sạch đun sôi để nguội và sữa tắm dưỡng ẩm của trẻ sơ sinh. Dùng khăn xô mềm lau khô người cho trẻ sau khi tắm.
Nếu sau 3 tháng mụn sữa không chấm dứt phải đưa trẻ đến bệnh viện.
Viêm da tiết bã
– Triệu chứng: Viêm da tiết bã cũng là một bệnh thường gặp ở trẻ sơ sinh mà dân gian vẫn gọi là “cứt trâu”. Bệnh xuất hiện từ khi trẻ được 2 tuần tuổi với những vảy nhờn dính tập trung nhiều trên đỉnh đầu hoặc ở vùng tã lót.
– Nguyên nhân: Do gen di truyền, môi trường sống ẩm ướt, hoặc do tăng đáp ứng viêm với vi nấm Malasssezi furfur.
– Cách xử lý: Gội đầu mỗi khi tắm cho trẻ, có thể bôi thêm dầu khoáng. Sau 8 – 12 tháng, các vảy “cứt trâu” này sẽ biến mất.
Chàm Eczema
– Triệu chứng: Da khô, nổi đỏ từng mảng, ngứa, mụn nước, bị kích ứng khi tiếp xúc với xà phòng, nước hoa, nước bọt hoặc các chất tẩy rửa khác. Bệnh xuất hiện nhiều ở mặt, đầu, chân tay sau đó lan ra khắp cơ thể.
– Nguyên nhân: Do di truyền, tăng tiết bã nhờn, do trẻ phải tiếp xúc nhiều với bụi bẩn, lông vật nuôi, hóa chất…
– Cách xử lý: Để trẻ ở nơi sạch sẽ, thoáng mát. Tắm cho trẻ hàng ngày và bôi dưỡng ẩm 2 – 3 lần/ngày.
Trường hợp da bị trày xước hoặc mưng mụn mủ nên đưa trẻ đến bệnh viện.
Rôm sảy
– Triệu chứng: Xuất hiện mụn nước li ti ở mặt, cánh tay, lưng, cổ.
– Nguyên nhân: Do trẻ tiết nhiều mồ hôi nhưng không thoát hết được. Bệnh xuất hiện nhiều hơn vào mùa hè.
– Cách xử lý: Bệnh tự hết khi vệ sinh sạch sẽ và để trẻ mặc quần áo khô thoáng.
Hăm tã
– Triệu chứng: Bệnh trải qua nhiều cấp độ, từ những vết ửng đỏ đến rộp nước ở vùng mông, bẹn. Trẻ bị hăm tã thường phải chịu rất nhiều đau đớn.
– Nguyên nhân: Dùng tã quá nhiều, tã quá chật, vệ sinh kém. Hiện nay, với sự phổ biến của tã giấy, hăm tã đã “vươn lên” trở thành một trong những bệnh ngoài da phổ biến nhất ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.
– Cách xử lý: Hạn chế dùng tã, giữ cho vùng mông, bẹn của trẻ khô thoáng.
Đi ngoài nhiều
– Triệu chứng: Sau 6 – 12 giờ đầu sau sinh trẻ đi phân keo màu xanh đậm, không mùi. Sau đó trẻ bú mẹ và đi nặng 2 – 3 lần/ngày, đi nhẹ có thể hơn 10 lần/ngày.
– Nguyên nhân: Phân ngay sau khi sinh là phân su, có màu xanh và không mùi. Sau đó, trẻ bú mẹ, trong sữa có nhiều nước nên trẻ đi vệ sinh nhiều là chuyện bình thường. Đây không phải là bệnh.
– Cách xử lý: Cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời theo nhu cầu của trẻ.
Nôn trớ, sặc
– Triệu chứng: Xuất hiện nhiều trong vài tháng đầu. Sau khi bú mẹ trẻ bị trớ ra sữa màu trắng, vàng hoặc sữa vón cục.
– Nguyên nhân: Bé bú sai tư thế, đặt bé nằm ngay khi vừa bú xong, trẻ ăn quá nhiều. Một số trường hợp do bệnh lý như chậm nhu động ruột, viêm đường hô hấp trên, dị tật đường tiêu hóa.
– Cách xử lý: Ngay khi trẻ nôn trớ phải cho trẻ nằm nghiêng và sơ cứu nếu trẻ bị sặc. Tham khảo tư thế đúng trong và sau khi cho trẻ bú để tránh bị nôn trớ.
Tiêu chảy
– Triệu chứng: Trẻ đi ngoài nhiều hơn bình thường, phân lỏng hoặc rất lỏng, mùi tanh. Trường hợp nặng có thể đi ngoài kèm theo máu.
– Nguyên nhân: Do mẹ cho con bú ăn phải nhiều thực phẩm có tính hàn, trẻ bị nhiễm trùng đường tiêu hóa.
– Cách xử lý: Mẹ không ăn ốc trong thời gian cho con bú, hải sản như cua, tôm, cá chỉ nên ăn 1 bữa/tuần. Cho trẻ bú mẹ nhiều hơn để bù đắp lượng nước đã mất khi trẻ bị tiêu chảy.
Mặc dù tiêu chảy cũng là bệnh lý thường gặp ở trẻ sơ sinh, nhưng chúng ta không thể vì thế mà coi thường. Nếu trẻ bị tiêu chảy 2 ngày không khỏi cần đưa trẻ đến bệnh viện để không nguy hiểm đến tính mạng.
Táo bón
– Triệu chứng: Trẻ trên 1 ngày mới đi nặng, phân rắn, trẻ phải tốn nhiều sức rặn mới có thể đi vệ sinh được.
– Nguyên nhân: Do mẹ ăn nhiều đồ cay nóng khi đang cho con bú, cho trẻ dùng sữa công thức không phù hợp.
– Cách xử lý: Mẹ tăng cường bổ sung chất xơ vào chế độ ăn uống (rau xanh, củ quả), cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời. Nếu bắt buộc phải dùng sữa ngoài, hãy chọn sữa mát.
Nghẹt mũi, hắt hơi
– Triệu chứng: Trẻ thở khó nhọc, khò khè, thường xuyên hắt hơi, có thể bị sổ mũi.
– Nguyên nhân: Trẻ bị cảm lạnh, dị ứng bụi bẩn, lông vật nuôi.
– Điều trị: Vệ sinh sạch sẽ và mặc quần áo ấm cho trẻ. Xoa tinh dầu vào lòng bàn chân, cho trẻ bú mẹ nhiều.
Nếu trẻ có mũi cần phải dùng hút mũi để hút sạch. Để bé nằm cao đầu một chút khi ngủ để nước mũi không chảy ngược vào trong.
Nấc cụt
– Triệu chứng: Xuất hiện nhiều khi trẻ mới chào đời. Trẻ nấc liên tục, có thể bị nấc 3 lần/ngày, mỗi lần kéo dài khoảng 3 phút.
– Nguyên nhân: Do sự co thắt không tự chủ và ngắt quãng của cơ hoành khiến khí hít vào bị ngưng đột ngột, thanh môn bất ngờ đóng lại.
– Cách xử lý: Không đợi đến khi trẻ quá đói mới cho ăn, cũng không nên cho trẻ bú quá no. Sau khi ăn, cần bế đầu cao hơn người để trẻ dễ tiêu hóa. Cho bé bú mẹ cũng là một cách chữa nấc cụt hiệu quả.
Nếu trẻ nấc cụt trên 3 lần/ngày, mỗi lần kéo dài trên 3 phút sẽ khiến trẻ mệt mỏi. Khi đó cần đưa trẻ đến bệnh viện.
Nhiễm trùng hô hấp
– Triệu chứng: Sốt, ho, sổ mũi, nghẹt mũi, thở khò khè. Trường hợp nặng trẻ thở nhanh, sốt cao, co giật, người tím tái.
– Nguyên nhân: Do nhiễm lạnh, ô nhiễm không khí, trẻ bị lây nhiễm từ người khác.
– Cách xử lý: Cho trẻ bú mẹ và đưa trẻ đi khám để được bác sĩ kê đơn thuốc.
Tưa lưỡi
– Triệu chứng: Lưỡi trẻ xuất hiện các mảng trắng hoặc vết loét nhỏ khiến trẻ biếng ăn, bỏ bú. Các vết tưa lưỡi có thể phát triển sang niêm mạc má, vòm miệng làm trẻ đau đớn.
– Nguyên nhân: Do nấm, vi khuẩn, virus.
– Cách xử lý: Không nên lạm dụng các dụng cụ tưa lưỡi, không dùng mật ong tưa lưỡi cho trẻ dưới 6 tháng tuổi. Dùng một trong các hoạt chất chống nấm Mycostatin/Nilstat/Nystatin, Miconazole/Daktar để bôi cho trẻ.
Rốn lồi
– Triệu chứng: Có mô phình ra ở khu vực dưới rốn, rốn lồi ra khá rõ, trẻ không đau.
– Nguyên nhân: Thoát vị rốn khiến một phần nội tạng rời khỏi vị trí ban đầu. Bệnh gặp nhiều ở trẻ sinh non hoặc nhẹ cân.
– Cách xử lý: Bệnh thường tự khỏi khi trẻ được 1 tuổi. Nếu khi đó tình trạng không tốt lên, hãy đưa trẻ đến bệnh viện.
Huyết tán
– Triệu chứng: Trẻ bị vàng da, thiếu máu kéo dài.
– Nguyên nhân: Do sự không tương thích giữa nhóm máu của người mẹ và thai nhi.
– Cách xử lý: Chọc dò nước ối khi mang thai để phát hiện sớm. Đưa trẻ đến bệnh viện khi thấy các dấu hiệu của huyết tán để được truyền máu và điều trị càng sớm càng tốt.
Hay vặn người, gồng
– Triệu chứng: trẻ thường vặn mình và đỏ mặt thường là sinh lý bình thường của trẻ sơ sinh dưới 3 tháng tuổi, biểu hiện thường là bé vặn người, đỏ mặt, triệu chứng kéo dài trong vòng vài phút và tự hết. Trẻ có thể xuất hiện kèm triệu chứng khó ngủ, cả ngày lẫn đêm không ngủ được tối thiểu từ 15 -17 tiếng trong 5-6 tháng đầu.
– Ban đêm và cữ khuya, trẻ hay thức giấc nhiều lần, hay giật mình, trằn trọc khó ngủ, người đổ nhiều mồ hôi, hay nấc, hay trớ, rụng tóc, chậm lên cân trong 3 tháng đầu (tăng dưới 800gram/tháng).
– Nguyên nhân: thường là do trẻ thiếu vitamin D từ trong bụng mẹ. Đây chính là dấu hiệu đầu chứng đang có nguy cơ trẻ còi xương. Theo thống kê tại VN, cứ 5 trẻ sẽ có 1 trẻ bị còi xương và trên 30% trẻ bị suy dinh dưỡng.
Khó ngủ
Trẻ sơ sinh ngủ nhiều giấc ngủ ngắn và không sâu. Bé bú mẹ hoàn toàn sẽ ngủ giấc ngắn hơn bé bú bình vì mau đói hơn. Nếu bé ngủ ít nhưng vẫn bú bình thường, lên cân tốt, vui vẻ không quấy khóc thì không sao.
Giấc ngủ của trẻ rất quan trọng, thường trẻ trong 3 tháng đầu sẽ ngủ từ 17 – 20 tiếng để đảm bảo cho sự phát triển giai đoạn này. Nếu trẻ khó ngủ kèm theo hay quấy khóc cũng không có vấn đề gì, đến 50% trẻ sơ sinh đều hay như vậy.
Khi nào bạn thấy trẻ khó ngủ kèm theo cả biểu hiện như: Hay lăn lộn, trăn trở khi ngủ, đổ nhiều mồ hôi, rụng tóc, thì thường là do trẻ thiếu Vitamin D. Chính là nguyên nhân khiến trẻ bị còi xương.
Trẻ hay quấy khóc.
Hệ thần kinh của trẻ sơ sinh chưa ổn định khiến trẻ rất dễ giật mình nên hay khóc. Ngoài ra, khóc cũng là cách duy nhất để trẻ bày tỏ các nhu cầu đơn giản của mình như đói, khát, … Cho dù nhiều mẹ rất cuống khi thấy con khóc, vì nhiều trẻ khóc trông rất vật vã, đỏ hết cả người, nhưng thật ra khóc không tổn hại gì cho con cả.
Ở giai đoạn trẻ sơ sinh, khóc còn là một vận động giúp trẻ rèn luyện hô hấp nữa. Trẻ mới sinh ra, kỹ năng hô hấp vẫn chưa hoàn thiện như người lớn nên khóc là một vận động làm tăng cường các cơ giúp trẻ hô hấp, đồng thời còn giúp cho phổi được mở rộng. Ngoài ra việc khi trẻ khóc sẽ cử động đập tay đập chân còn là vận động giúp trẻ tăng nhiệt độ cơ thể, và tự bản thân điều chỉnh nhiệt độ cơ thể của mình nữa đấy (vì giai đoạn sơ sinh này nhiệt độ cơ thể của trẻ vẫn chưa ổn.)
Đa phần các mẹ khi nghe con khóc chỉ chừng vài giây là bế con lên ôm ấp và cho con bú. Nhưng các mẹ lại không ngờ chính việc ôm trẻ có thể sẽ trở thành rào cản vô tình cản trở việc trẻ luyện tập cho cơ thể mình phát triển, đôi khi còn khiến trẻ mệt mỏi hơn. Đồng thời việc khi trẻ khóc là bế và cho bú luôn cũng có thể là một nguyên nhân khiến trẻ hình thành thói quen không tốt là phải bế hoặc phải cho bú mới ngủ, …
Sốt
– Nguyên nhân gây sốt ở trẻ: thường là do virut hoặc vi khuẩn gây bệnh, mặc quá nhiều quần áo làm cho môi trường bên trong cơ thể bé nóng, trẻ sơ sinh còn chưa điều tiết được thân nhiệt, nhiều bé sơ sinh sau khi tiêm phòng về hay bị sốt
– Điều mẹ cần biết khi trẻ bị sốt:
- Thường xuyên theo dõi, đo nhiệt độ cho bé
- Mặc quần áo rộng tạo cảm giác thông thoáng cho bé
- Cho bé bú mẹ nhiều hơn
- Sử dụng nước ấm để lau trán, nách và tay chân cho bé
- Mẹ cần theo dõi nếu bệnh tiến triển nặng hơn cần đưa bé đi khám
Các bệnh thường gặp ở trẻ sơ sinh phần lớn do sức đề kháng yếu, phần còn lại do di truyền. Siêu âm đều đặn trong giai đoạn thai kỳ là cách tốt nhất để phát hiện và định hướng điều trị bệnh từ sớm. Sau khi sinh con, hãy đảm bảo cho bé bú mẹ hoàn toàn trong ít nhất 6 tháng đầu đời. Trường hợp người mẹ có các vấn đề về sữa cần tìm biện pháp bổ sung để đảm bảo đủ nguồn sữa mẹ cho con.