Bệnh phụ khoa là thuật ngữ dùng để chỉ một nhóm các bệnh thường xảy ra ở bộ phận sinh dục sinh sản của người phụ nữ như là âm hộ – âm đạo, cổ tử cung, tử cung, vùng chậu, buồng trứng hay là vòi trứng,… Dưới đây là danh sách các bệnh phụ khoa thường gặp nguy hiểm mà các chị em có thể hay mắc phải.
Bệnh viêm âm hộ – âm đạo:
Bệnh viêm âm hộ – âm đạo thuộc ở trong các diện bệnh phụ khoa nguy hiểm phổ biến nhất xảy ra do tình trạng âm hộ – âm đạo bị tấn công bởi tác nhân có thể đến từ môi trường bên ngoài hoặc là bên trong cơ thể. Biểu hiện của bệnh bao gồm như là vùng kín ngứa, đau rát sưng tấy, dịch âm đạo ra nhiều, màu khác, mùi hôi khó chịu. Tùy theo tình trạng cụ thê chị em được bác sỹ chỉ định liều lượng, liệu trình thích hợp với thuốc đường uống, thuốc bôi tại chỗ hoặc thuốc đạn đặt âm đạo.
Viêm lộ tuyến cổ tử cung
Đây là bệnh lý các tuyến cổ tử cung vốn phát triển bên trong cổ tử cung nay xâm lấn, phát triển ra mặt ngoài cổ tử cung khiến dịch tiết ra nhiều hơn bình thường tạo điều kiện các tác nhân tấn công gây viêm. Khi bị viêm lộ tuyến cổ tử cung dịch tiết màu trắng đục hoặc vàng xanh, ở trạng thái loãng hoặc đục hơn, xuất hiện mùi khó chịu, vùng kín sưng đau và tấy đỏ, có thể ra máu khi quan hệ. Bệnh viêm lộ tuyến có thể được điều trị bằng nội khoa, ngoại khoa hoặc kết hợp cả 2. Phương pháp nội khoa là dạng điều trị bằng thuốc ở dạng tiêm, dạng truyền hoặc đặt trực tiếp âm đạo. Phương pháp ngoại khoa là dạng điều trị trực tiếp loại bỏ vùng lộ tuyến bị viêm nhiễm bằng kỹ thuật áp lạnh, đốt laser, đốt điện,…
Viêm cổ tử cung – tử cung
Bệnh xảy ra khi cổ tử cung – tử cung bị xâm hại bởi tác nhân chủ yếu đến từ vi khuẩn. Trong trường hợp bị viêm cổ tử cung – tử cung lượng dịch ở âm đạo gia tăng, dịch chuyển sang màu vàng nhạt, có mủ, kèm theo máu. Chị em bị sưng đau, ngứa rát vùng kín, nếu quan hệ sẽ thấy đau hơn. Sau khi thăm khám thực hiện xét nghiệm, siêu âm, viêm cổ tử cung – tử cung thường được bác sỹ điều trị bằng các thuốc với loại, liều lượng, liệu trình tùy từng trường hợp.
Viêm vùng chậu
Viêm vùng chậu nguy hiểm nhất bởi viêm nhiễm xảy ra ở nhiều cơ quan như là cổ tử cung, tử cung, vòi trứng, buồng trứng,… Biểu hiện của bệnh là đau âm ỉ hoặc dữ dộivùng bụng dưới, dịch tiết ra nhiều, màu vàng, xanh hoặc hồng, mùi hôi khó chịu, rối loạn kinh nguyệt. Bệnh có thể điều trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật. Việc lựa chọn phương pháp dựa trên mức độ bệnh và tình trạng thể chất.
Viêm phần phụ
Viêm phần phụ là viêm nhiễm xảy ra ở vòi trứng, buồng trứng và hệ thống dây chằng rộng. Các dấu hiệu là dịch tiết âm đạo ra nhiều bất thường, màu nâu hoặc hồng, mùi hôi khó chịu, đau khu vực lưng và bụng dưới,… Viêm phần phụ chủ yếu do sự xâm hại của vi khuẩn, thường được điều trị bằng kháng sinh thích hợp sau khi đã tiến hành thực hiện kháng sinh đồ.
U xơ tử cun
U xơ tử cung là tình trạng trên hoặc trong thành cơ tử cung xuất hiện khối u lành tính hình thành bởi tế bào cơ trơn phân chia nhiều lầ tách khỏi phần còn lại của thành tử cung. Người bệnh u thường có biểu hiện rong kinh, cường kinh, đau khu vực vùng chậu, khi quan hệ, buồn tiểu và đi tiểu thường xuyên, táo bón, bụng chướng to. Hiện tùy thuộc tình trạng cụ thể mà các bác sỹ có thể áp dụng điều trị bằng thuốc với mục đích kích thích làm teo khối u hoặc phẫu thuật để cắt bỏ trực tiếp u xơ.
U nang buồng trứng
U nang buồng trứng xảy ra khi bao nang chứa dịch với kích thước từ vài mm cho đến vài cm xuất hiện trên bề mặt hoặc bên trong buồng trứng. Biểu hiện u nang buồng trứng có như đau bụng, đau xương chậu, đau khi quan hệ, lao động nặng, rối loạn kỳ kinh nguyệt, dịch âm đạo ra nhiều, mùi khó chịu, rối loạn tiêu hóa, tiểu tiện khó khăn,… U nang buồng trứng điều trị bằng thuốc hoặc phẫu thuật bóc tách bảo toàn buồng trứng hoặc cắt toàn bộ buồng trứng.
Polyp cổ tử cung
Polyp cổ tử cung là tình trạngbề mặt, bên trong cổ tử cung xuất hiện các khối u ban đầu kích thước nhỏ sau ngày càng to dần, nó có thể dẫn đến triệu chứng xuất huyết âm đạo, kinh nguyệt bất thường, vấn đề về tiểu tiện, đau bụng, đau khi quan hệ. Polyp cổ tử cung có thể điều trị bằng thuốc tác dụng ức chế sự phát triển của các khối u và làm teo chúng hoặc tiến hành can thiệp bỏ trực tiếp khối polyp bằng phẫu thuật.